Kỷ niệm ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm Xuất Gia

Cùng chuyên mục:
>> Văn hóa người Phật tử
>> Ảnh đẹp Đức Phật Di Đà và Tây Phương Thánh Chúng
>> Câu chuyện về cô gái câm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát
---------

若 有 百 千 萬 億 眾 生,為 求 金 銀, 琉 璃, 硨 磲, 瑪 瑙, 珊 瑚, 琥 珀, 珍 珠 等 寶,入 於 大 海, 假 使 黑 風 吹 其 船 舫, 飄 墮 羅 剎 鬼 國,其 中 若 有 乃 至 一 人 稱 觀 世 音 菩 薩 名 者,是 諸 人 等, 皆 得 解 脫 羅 剎 之 難,
“Nhược hữu bá thiên vạn ức chúng sanh, vị cầu kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu đẳng bảo... nhập ư đại hải. Giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phường phiêu đọa La-sát quỷ quốc.
“Kỳ trung nhược hữu nãi chí nhất nhân xưng Quán Thế Âm Bồ Tát danh giả, thị chư nhân đẳng giai đắc giải thoát la-sát chi nạn. Dĩ thị nhân duyên, danh Quán Thế Âm.
Dịch:
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm các thứ châu báu như vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió bảo thổi ghe thuyền của kẻ trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong do nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thời những người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.
Ẩn ý: (do chúng tôi VLCĐ thích nghĩa)
Chúng sinh ở thế gian, vì mưu sinh, vì cuộc sống mà bị lôi kéo vào tham vọng, đua tranh ( vị cầu kim ngân, lưu ly, xa cừ, mã não) rồi càng kết bè kết phái làm bất cứ chuyện gì để thỏa mãn cái lòng tham vô đáy của mình mà lao vào tội lỗi (nhập ư đại hải) hải đây là biển khổ. (Giả sử hắc phong xuy kỳ thuyền phường phiêu đọa La-sát quỷ quốc) rồi hắc phong là những ngọn gió đen do tam đọc Tham Sân Si nổi lên trong lòng dẫn con người ta nhập vào nước của La sát khiến đau thương quằn quại quá đỗi bi ai.....Nếu bị như thế thì trong đó có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thời những người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Niệm danh hiệu Ngài ở đây tức là thực hành theo bản nguyện của Ngài, biết từ bi, bố thí, trải lòng thương yêu đễn mọi người. Người niệm ở đây dụ cho Người có trí tuệ, người nổi bật, người đứng đầu. Từ đó mà suy ra, trong gia đình, nơi công sở, chốn học đường... đâu đâu cũng thế. thực hiện bản nguyện Từ bi của Ngài ấy chính là đã cảm ứng được sự Đại từ Đại bi, Cứu khổ cứu nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát.
-----------------

Sự tích Quan Âm Thị Kính được lưu truyền phổ biến trong dân gian Việt Nam từ xưa qua nghệ thuật hát chèo, truyện thơ và gần đây nhất là truyện văn xuôi. Theo tác giả Nguyễn Lang, sách Việt Nam Phật giáo sử luận, tập II, “Truyện thơ Quan Âm Thị Kính (bản Nôm) hiện chưa biết được sáng tác trong thời gian nào. Bản Việt ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành năm 1911, gồm 788 câu lục bát và một lá thư Kính Tâm viết cho cha mẹ bằng văn biền ngẫu”. Cứ vào nội dung của truyện Quan Âm Thị Kính thì có thể đây là một dị bản của Phật giáo Cao Ly (Triều Tiên): “Thị Kính là con gái của nhà họ Mãng, quận Lũng Tài, thành Đại Bang, nước Cao Ly”. Tuy vậy, bối cảnh của câu chuyện Quan Âm Thị Kính liên quan mật thiết đến một ngôi chùa cổ ở miền Bắc nước ta, Pháp Vân tự (chùa Dâu, Bắc Ninh). Và Phật Bà chùa Dâu được xem là Phật Bà Quan Âm Thị Kính, “Xem trong cõi nước Nam ta/Chùa Vân có Đức Phật Bà Quan Âm”. Hình ảnh Quan Âm Thị Kính bồng con trên tay, qua nhiều dị bản rất gần gũi và tương đồng với những câu chuyện về Quan Âm đồng tử và Quan Âm tống tử. Theo các nhà nghiên cứu, tượng Quan Âm tay ôm đồng tử lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử tín ngưỡng tượng hình tại Việt Nam vào thế kỷ thứ XVII và đã trở nên nổi tiếng vào thế kỷ thứ XVIII, hiện nay vẫn còn bảo lưu tại nhiều chùa.
Truyện thơ Quan Âm Nam Hải gồm 1.426 câu, được lưu truyền trong dân gian trước cả truyện Quan Âm Thị Kính. Theo Nguyễn Lang (sđd), truyện Quan Âm Nam Hải vốn xuất phát từ một vị Tăng đời Nguyên bên Trung Hoa. Tích này được lưu truyền trên đất Việt kể từ khoảng cuối thế kỷ XIV hay XV và được Việt hóa. Bản Nôm cổ nhất của truyện Quan Âm Nam Hải vẫn chưa biết được khắc vào thời đại nào. Bản Việt ngữ đầu tiên Quan Âm diễn ca của Huỳnh Tịnh Của, ấn hành năm 1897.
Theo dị bản Việt hóa thì Quan Âm Nam Hải vốn là Diệu Thiện, công chúa thứ ba (về sau gọi bà Chúa Ba) con vua Diệu Trang (Subhavyùha) ở nước Hưng Lâm (có thể thuộc Ấn Độ). Nàng từ bỏ cuộc sống xa hoa của cung đình, vượt qua mọi ngăn trở của vua cha, cương quyết vượt biển đến động Hương Tích (chùa Hương ngày nay) tu hành và chứng quả tại đây. Truyền thuyết cho rằng, sau khi đắc đạo, công chúa Diệu Thiện biến thành Quan Âm nghìn mắt nghìn tay cứu độ hoàng tộc và muôn dân. Theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền, tượng thờ Quan Âm Nam Hải xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XVI.
Trong một văn bia đời nhà Mạc năm 1578, học giả nổi tiếng đương thời là Nguyễn Bỉnh Khiêm cho biết tượng Diệu Thiện được tôn thờ tại chùa Cao Dương. Văn bia còn ghi rõ Diệu Thiện là một biểu tượng rất đặc thù của giáo lý từ bi trong đạo Phật. Quan Thế Âm nghìn tay nghìn mắt trước hết có liên hệ mật thiết với sự thực tập trì chú Đại bi, dần dần đã trở nên một biểu tượng rất lớn trong các chùa viện Phật giáo” (Thích Hạnh Tuấn, Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm nghìn tay nghìn mắt).
Như vậy, các hình thái Quan Âm Nam Hải, Quan Âm đồng tử, Quan Âm tống tử, Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính đều bắt nguồn từ lòng từ bi, hiện thân cứu độ của Bồ tát Quan Thế Âm trong kinh Pháp Hoa. Những truyện tích và tín ngưỡng Quan Âm rất phổ biến ở các nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tôn tượng Bồ tát Quan Thế Âm được thờ tại chùa viện nước ta hiện nay rất đa dạng, dựa vào một trong 33 ứng hóa thân của Bồ tát.
Về ba ngày vía của Bồ tát Quan Thế Âm, HT.Thích Huyền Tôn, dẫn theo Thiền môn nhật tụng cho biết: 19-2 kỷ niệm Bồ tát Quan Thế Âm đản sinh, 19-6 kỷ niệm Bồ tát Quan Thế Âm thành đạo, 19-9 kỷ niệm Bồ tát Quan Thế Âm xuất gia.
